Cảm nhận về bài thơ Đất Nước từ câu 10 đến câu 29

Cảm nhận về bài thơ Đất Nước từ câu 10 đến câu 29 – Bài mẫu số 1

Thơ của Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là luôn chứa đựng những suy nghĩ sâu sắc và cảm xúc dày đặc. Bài thơ “Đất nước” là một trong những tác phẩm thành công của nhà thơ này, thể hiện sự yêu quý và trách nhiệm của ông đối với quê hương.

Đặc biệt Từ Câu 10 Đến Câu 29 đã thể hiện thành công những cảm nhận chân thành, mới mẻ và gần gũi của nhà thơ khi định nghĩa hai từ thân thương “đất nước”:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có cách định nghĩa thật mới mẻ, cụ thể về đất nước. Với ông đất nước là những gì bình dị, rất gần gũi và thân thuộc với mỗi con người:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn”

Ông đã mượn phong cách tử tế và thân thiện trong cách đối đáp giữa hai người để tạo ra một hình ảnh rõ ràng về đất nước. Tác giả đã khéo léo chia “đất nước” thành hai thành phần riêng biệt là “đất” và “nước” để xác định ý nghĩa của chúng. Với nhà thơ, “đất nước” là những địa điểm tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, như là “nơi anh đi học” hay “nơi em đi tắm”.

Đất nước trong quan điểm của nhà thơ trở thành một nơi chờ đợi trong kỷ niệm của người con gái dành cho người yêu của mình. Đến lúc “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Trong ý thơ này, nhà thơ đã sử dụng hình ảnh ca dao ngọt ngào và sâu lắng một cách tinh tế.

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…”

Bằng hình ảnh trong ca dao, nhà thơ đã ngầm định nghĩa rằng đất nước chính là nơi mà trong đó những câu ca dao hàng ngày được truyền tai trong mỗi miền quê yên bình. Đây là một ý thơ thật đẹp, giàu hình tượng. Bởi vì ai lớn lên từ cái nôi mà không nghe những lời ru, những câu ca dao ngọt ngào của mẹ.

Nhà thơ tiếp tục say sưa với những định nghĩa về đất nước. Đất nước hiện lên trong những câu thơ tiếp theo là hình ảnh đất nước hùng vĩ, mênh mông có tự lâu đời:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Không chỉ sử dụng hình ảnh ca dao quen thuộc, nhà thơ còn tiếp tục sử dụng các câu dân ca Huế sâu lắng và ý nhị như “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi” để tạo cảm giác về quốc gia.

Hình ảnh “con chim phượng hoàng” với “núi bạc”, “con cá ngư ông” với “biển khơi” gợi lên một đất nước huy hoàng, hùng vĩ và giàu đẹp. Đất nước hùng vĩ ấy đã trải qua “thời gian” “không gian” dài và rộng lớn.

Đất nước không chỉ là nơi gần gũi thân thuộc, trải qua bao thăng trầm lịch sử mà còn là vùng đất linh thiêng gắn với truyền thuyết “con rồng cháu tiên”:

“Đất là nơi chim về….Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Nhà thơ nhấn mạnh rằng dân tộc Việt Nam là nơi “đất lành chim đậu”, nơi có rồng thiêng “thăng long” và có cội nguồn lâu đời. Nó gắn bó với truyền thuyết dân gian mà không ai trên mảnh đất hình chữ S này không nhớ. Tất cả dân tộc Việt Nam đều là anh em, dù lên rừng hay xuống biển, nguồn gốc của họ vẫn được sinh ra từ “bọc trứng”.

Xuyên suốt đoạn thơ, nhà thơ đã tách hai từ “Đất nước” thành hai thành phần “đất” và “nước”, và lặp lại chúng nhiều lần trong hình ảnh thơ bình dị. Điều này mang đến sự hiểu biết đậm sâu và riêng của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước, với âm hưởng dân gian.

Từ trái tim chân thành và tình yêu sâu sắc dành cho quê hương, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những khái niệm mới mẻ và cụ thể. Tuy nhiên, cũng rất gần gũi và thân thuộc với mỗi người Việt Nam. Khi đọc đoạn thơ này, người đọc được trở lại với không gian gần gũi của miền quê, hòa mình vào những câu ca dao và dân ca ngọt ngào.

Xem thêm  Máy lạnh Midea của nước nào? Có tốt không?

Cảm nhận về bài thơ Đất Nước từ câu 10 đến câu 29 – Bài mẫu số 2

Chương “Đất Nước” được trích từ trường ca “Mặt Đường Khát Vọng”, là sự cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ quốc gia. Tương tự như các nhà thơ trẻ tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện suy nghĩ của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm cá nhân. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của Ca Dao Thần Thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức trong Chương V của bản trường ca này.

Tư tưởng chủ đạo được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Tác giả sử dụng lý lẽ đơn giản để thuyết phục người đọc rằng không ai khác ngoài nhân dân – những người vô danh – đã kiến tạo, bảo vệ và giữ gìn đất nước, cùng với những truyền thống văn hóa và lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ không chỉ trình bày ý kiến một cách khô khan và trừu tượng, mà còn sử dụng hình ảnh và giọng điệu thơ sôi nổi để diễn đạt. Qua việc kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận trong các câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm mong muốn đánh thức ý thức và tinh thần dân tộc, gắn kết lòng yêu nước của những người trẻ trong giai đoạn chống Mĩ.

Sử dụng hình thức trò chuyện tâm sự với một người con gái yêu thương, chương V của bản trường ca có vẻ tự do và phóng túng, nhưng từ sâu thẳm trong cảm hứng của mỗi phần, tư tưởng cốt lõi vẫn luôn xoay quanh đất nước và nhân dân. Tư tưởng này được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và triển khai trên nhiều khía cạnh: trong quãng thời gian kéo dài (thời gian trôi qua) và trong đa dạng văn hoá, phong tục, tâm hồn và bản sắc dân tộc. Ba khía cạnh này liên kết, hoà quyện và đan xen mật thiết vào “hệ quy chiếu” của bài thơ. Đất nước của nhân dân là linh hồn toàn bộ bài thơ.

Cả chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng” như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông và đất nước. Điều này không chỉ là thủ pháp nghệ thuật mà còn là một tiếp thu có sự sáng tạo trong văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ – đã thấm vào từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình ảnh cho tới chi tiết nghệ thuật trong bài thơ.

Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.

Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:

Xem thêm  Sai số đồng hồ cơ – Nguyên nhân và cách để giảm sai số cực đơn giản

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san xẻ,

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,

Làm nên Đất Nước muôn đời. 

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, đượcnuôi dưỡng qua các thế hệ:

Những ai đã khuất,

Những ai bây giờ,

Yêu nhau và sinh con đẻ cái,

Gánh vác phần người đi trước để lại.

Dặn dò con cháu chuyện mai sau,

Hằng năm ăn đâu nằm đâu,

Cũng biết cúi đầu nhớ – ngày giỗ Tổ.

Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:

Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,

Đất Nước của ca dao, thần thoại.

Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Xem thêm  Kinh nghiệm chọn mua máy tính để bàn chi tiết cho văn phòng, gia đình

Cảm nhận về bài thơ Đất Nước từ câu 10 đến câu 29 – Bài mẫu số 3

Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước. Thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý.

“Đất là nơi anh đến trường
….Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình. Nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm. Nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người.

Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ. Nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm. Nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái.

Hai câu thơ tiếp, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ. Mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng.

“Thời gian đằng đẵng…
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông. Nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri. Mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng. Và đồng thời gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc.

Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục

“Những ai đã khuất
…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước. Chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao.

Bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân:

“Trong anh và em hôm nay
….Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng. Giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng: Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
…Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử. Các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc.

Thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào.

Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc. Mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng.

—/—

Nguồn: thtrangdai.edu.vn

Chuyên mục: Blog

Viết một bình luận