Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc và ý nghĩa của giá trị thặng dư là như thế nào?

Giá trị còn lại là gì? Đây là từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất hiện nay, dưới đây ldg.com.vn giải thích Giá trị còn lại là gì một cách chi tiết và chính xác. Chúng ta hãy xem ngay bây giờ!

Giá trị còn lại là gì? Nguồn gốc, ý nghĩa và bản chất của giá trị thặng dư? Giá trị nguyên vẹn của lý thuyết giá trị thặng dư là gì?

Thặng dư là một thuật ngữ kinh tế phổ biến nhưng không phải ai cũng hiểu rõ ý nghĩa và bản chất của nó.

Giá trị còn lại là gì?

Giá trị thặng dư là phần chênh lệch giữa giá trị thành phẩm và số tiền đầu tư ban đầu. Đây là một khái niệm được D. Ricardo minh họa bằng cách tưởng tượng việc trả cho chủ đất một phần lợi nhuận từ đất đai màu mỡ.

Marx nghiên cứu giá trị thặng dư dựa trên khái niệm lao động lãng phí, trong đó người lao động tạo ra giá trị vượt quá mức lương trả cho họ – mức lương vừa đủ để duy trì sự tồn tại của họ. Marx lập luận rằng việc bóc lột công nhân chỉ có thể chấm dứt khi các nhà tư bản trả cho công nhân toàn bộ giá trị của giá trị mới được tạo ra.

Theo A. Marshall, từ quan điểm cơ bản, mọi thu nhập vượt quá chi phí yếu tố đều được coi là tiền thuê ngắn hạn. Do đó, ông lập luận rằng trong trường hợp không có những cơ hội khác để một yếu tố sản xuất được lựa chọn thì toàn bộ phần thưởng được trao cho nó sẽ được coi là giá trị thặng dư.

Hiện nay có hai phương pháp chính để đạt được giá trị thặng dư:

  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

Đây là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư mà năng suất lao động, giá trị lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá giới hạn thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi dẫn đến thời gian lao động thặng dư tăng lên. Phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài thời gian lao động thặng dư mà năng suất, giá trị, thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Cơ sở chung của chủ nghĩa tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối, thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Đây là thời điểm lao động còn ở mức độ thủ công, năng suất lao động còn thấp. Lúc này, với lòng tham vô hạn, bọn tư bản tìm đủ mọi thủ đoạn kéo dài ngày làm việc để tăng khả năng bóc lột sức lao động của người làm thuê.

Tuy nhiên sức người có hạn. Hơn nữa, vì công nhân đấu tranh quyết liệt để rút ngắn ngày làm việc nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày làm việc vô thời hạn. Nhưng ngày làm việc không thể rút ngắn đến mức thời gian làm việc cần thiết. Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Bởi vì cường độ lao động tăng lên cũng tương tự như việc kéo dài thời gian làm việc trong ngày nhưng thời gian làm việc yêu cầu không thay đổi.

Xem thêm  Khám phá bí quyết làm đẹp của phụ nữ cổ đại

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:

Đó là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, từ đó làm tăng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện ngày lao động và cường độ lao động không đổi. .

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do thời gian lao động tất yếu bị rút ngắn do năng suất lao động tăng lên. Năng suất lao động xã hội tăng, trước tiên là ở ngành sản xuất hàng tiêu dùng, khiến giá trị lao động giảm xuống. Từ đó, thời gian lao động cần thiết cũng giảm đi. Khi độ dài của ngày làm việc không đổi, việc giảm thời gian lao động cần thiết sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư (thời gian tạo ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản).

Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động. Từ đó, thời gian lao động thặng dư tăng lên trong điều kiện ngày làm việc liên tục và cường độ lao động.

Giá trị khuyến mãi siêu thặng dư:

Đây là giá trị thặng dư mà doanh nghiệp sản xuất thu được có giá trị cá nhân thấp hơn giá trị xã hội. Khi bán hàng hóa theo giá trị xã hội họ sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các sản phẩm khác. doanh nghiệp khác. Giá trị siêu thặng dư = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá nhân của hàng hóa. Giá trị siêu thặng dư là một dạng méo mó của giá trị thặng dư tương đối; là động lực trực tiếp làm tăng năng suất lao động.

Vì muốn đạt được nhiều giá trị thặng dư hơn và đạt được lợi thế cạnh tranh nên các nhà tư bản áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Mục đích nhằm cải tiến, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế và tăng năng suất lao động. Kết quả là giá trị cá nhân của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Bất kỳ nhà tư bản nào áp dụng phương pháp này sẽ thu được nhiều giá trị thặng dư khi bán hàng hơn các nhà tư bản khác.

Giá trị siêu thặng dư là giá trị thặng dư đạt được vượt quá giá trị thặng dư thông thường của xã hội. Nếu xét mỗi nhà tư bản xuất khẩu thì giá trị siêu thặng dư chỉ là hiện tượng nhất thời. Tuy nhiên, xét về mặt tổng thể xã hội tư bản, giá trị siêu thặng dư là một hiện tượng thường trực. Vì vậy, giá trị siêu thặng dư là động lực mạnh nhất để các nhà tư bản cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động.

Cả giá trị thặng dư tương đối và giá trị siêu thặng dư đều dựa trên năng suất lao động tăng lên. Tuy nhiên, cả hai khác nhau ở chỗ giá trị thặng dư tương đối dựa trên năng suất lao động xã hội tăng lên. Trong khi giá trị siêu thặng dư lại dựa trên việc tăng năng suất lao động cá nhân.

Học thuyết về giá trị thặng dư được coi là một phát minh quan trọng, chỉ đứng sau lập luận duy vật lịch sử của Marx. Vậy giá trị thặng dư là gì? Về cơ bản, giá trị thặng dư là sự phản ánh các quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Việc tạo ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư phản ánh bản chất của các mối quan hệ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (mối quan hệ bóc lột của nhà tư bản với người làm thuê).

Xem thêm  Các chế độ bảo mật trên điện thoại cảm ứng

Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị thặng dư. Tuy nhiên, bạn có thể hiểu nó một cách đơn giản như sau.

“Giá trị thặng dư là giá trị do người làm thuê tạo ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng lại bị các nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn. Đối với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi ra tư liệu sản xuất và mua sức lao động. Mục đích của việc tiêu tiền là để thu về một số tiền vượt quá số tiền họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Số tiền còn lại là giá trị thặng dư.

Như vậy, giá trị vượt quá giá trị lao động do người làm thuê tạo ra và được các nhà tư bản chiếm giữ được gọi là giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư được Marx nghiên cứu dưới góc độ lãng phí lao động. Trong đó người lao động được thuê tạo ra nhiều giá trị hơn chi phí phải trả cho họ. Đây là yếu tố được quy định bởi mức lương tối thiểu chỉ đủ để họ sống bằng nghề công nhân. Đối với Marx, việc bóc lột sức lao động chỉ có thể chấm dứt khi các nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị của giá trị mới được tạo ra.

Nguồn gốc của giá trị thặng dư là gì?

Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua lao động và phương tiện sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và lao động đều được nhà tư bản mua nên trong quá trình sản xuất, công nhân làm việc dưới sự điều khiển của nhà tư bản và sản phẩm sản xuất ra đều thuộc sở hữu của nhà tư bản.

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị gia tăng cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt đến một mức nhất định – chỉ với một phần ngày làm việc, người làm thuê đã tạo ra giá trị ngang nhau. giá trị sức lao động của chính mình.

Thông qua lao động cụ thể của mình, người công nhân sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của mình thành sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, người công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó gọi là giá trị thặng dư.

Giá trị của hàng hóa (W) sản xuất ra gồm hai phần: giá trị của tư liệu sản xuất lãng phí được lao động cụ thể bảo tồn và chuyển hóa thành sản phẩm (giá trị cũ, ký hiệu c) và giá trị mới (v+m) là do lao động trừu tượng của người công nhân tạo ra (lớn hơn giá trị hàng hóa lao động).

Giá trị mới do lao động sống tạo ra bên cạnh giá trị hàng hóa của sức lao động mà nhà tư bản thu được mà không trả lương cho người công nhân, được gọi là giá trị thặng dư (m). Như vậy, lao động sống là nguồn tạo ra giá trị thặng dư.

Ý nghĩa và bản chất của giá trị thặng dư là gì?

Nghiên cứu Lý thuyết giá trị thặng dư của Karl Marx, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển của đất nước hiện nay.

Thứ nhất, trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở nước ta, ở một mức độ nhất định, quan hệ bóc lột không thể bị loại bỏ ngay lập tức và hoàn toàn theo cách tiếp cận giáo điều, xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta càng thấy rõ rằng chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của nó.

Xem thêm  Công dụng của đèn sưởi nhà tắm đối với sức khỏe của gia đình bạn

Thứ hai, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi kế hoạch đều hướng tới lượng hóa một cách rõ ràng, máy móc và chặt chẽ mức độ bóc lột trong chính sách quy hoạch. các chính sách cũng như thái độ phân biệt đối xử đối với tầng lớp doanh nghiệp mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều thuyết phục hơn ngày nay là mối quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật.

Khi các chính sách của Đảng, Nhà nước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh không chỉ góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy pháp luật làm công cụ, cơ sở điều hành. hành vi xã hội nói chung mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Những người tuân thủ pháp luật sẽ được xã hội ghi nhận, tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong nhận thức, cần nhìn nhận chung rằng đây cũng là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội, thu nhập cá nhân, doanh nghiệp phải được kiểm soát chặt chẽ, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác bảo đảm công bằng trong phân phối qua Nhà nước và qua các “kênh”. “phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Tôi cho rằng đây là cách tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó vào một giai đoạn lịch sử cụ thể để giải quyết vấn đề. giải phóng sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với kinh tế quốc tế.

Thứ ba, mặt khác, chúng ta cũng phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động thông qua luật pháp và các chế tài cụ thể để đảm bảo tính công khai, minh bạch và bền vững. Những xung đột lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, và việc giải quyết những xung đột đó như thế nào để tránh những xung đột không đáng có cũng là yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện ở bản chất của chế độ mới.

Bảo vệ quyền lợi chính đáng, quyền được pháp luật bảo vệ của các bên trong quan hệ lao động là bảo đảm cho việc áp dụng hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay. Đồng thời, đó cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Học thuyết về giá trị thặng dư của Karl Marx ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc phát hiện ra giá trị thặng dư đã gây ra một cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản những vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản.

Qua bài viết trên của LDG, hy vọng bạn đọc đã có câu trả lời cho câu hỏi “Giá trị thặng dư là gì?” cùng với đó là Nguồn gốc, ý nghĩa, bản chất của giá trị thặng dư?. Cảm ơn bạn đọc đã theo dõi bài viết trên.

Nhớ để nguồn: Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc và ý nghĩa của giá trị thặng dư là như thế nào? tại thtrangdai.edu.vn

Chuyên mục: Blog

Viết một bình luận