Sơ đồ tư duy Phân tích 8 câu thơ giữa Kiều ở lầu Ngưng Bích
Dàn ý Phân tích 8 câu thơ giữa Kiều ở lầu Ngưng Bích
Dàn ý 1
1. Mở bài: Giới thiệu về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
2. Thân bài
* Nêu khái quát vấn đề cần bàn luận:
* Nỗi nhớ về người yêu:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
+ Kiều hồi tưởng về đêm trăng cùng Kim Trọng uống chén rượu thề nguyện đồng lòng
+ Kiều nhớ người yêu đến da diết và Kim Trọng cũng vẫn chờ mong Kiều khiến Kiều cảm thấy vô cùng xót xa
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
+ Kiều bây giờ đang bơ vơ, lạc lõng. Nàng thương xót mình và người yêu cũng như mối tình đẹp với Kim Trọng. Tuy Kiều không còn là cô gái trong trắng ngây thơ như trước đây nhưng tấm lòng son sắt, thủy chung của nàng dành cho Kim Trọng vẫn vẹn nguyên như ngày nào.
* Lòng hiếu thảo của Thúy Kiều được thể hiện:
”Xót thương tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?”
+ Kiều luôn một lòng lo cho cha mẹ già không ai chăm sóc, tác giả sử dụng động từ ”xót” cho thấy sự lo lắng, bồn chồn liệu các em có chăm sóc được cho cha mẹ chu đáo không. Cụm từ ”quạt lồng ấm lạnh” càng thể hiện sự lo lắng, sự nhớ thương cha mẹ da diết
”Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
+ Luôn nhớ về mái nhà nhỏ, nơi mà gia đình cô đã từng sống vui vẻ, hạnh phúc
* Đánh giá về lòng hiếu thảo của Thúy Kiều
3. Kết bài: Bày tỏ suy nghĩ của em về nỗi nhớ người yêu và lòng hiếu thảo của Thúy Kiều.
Dàn ý 2
1. Mở bài:
- Nguyễn Du là một danh nhân văn hoá, đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
- “Truyện Kiều” là tác phẩm nổi tiếng của ông, có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật.
- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc biệt là 8 câu thơ giữa khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều.
2. Thân bài:
a. Khái quát về đoạn trích:
– Vị trí: nằm ở phần hai Gia biến và lưu lạc.
– Nội dung:
- Sau khi Kiều bán mình chuộc cha thì bị lừa bán vào lầu xanh.
- Nàng tự vẫn nhưng không thành.
- Tú Bà hứa khi nàng bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế, rồi giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Giữa khung cảnh vắng lặng, cô quạnh của lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ đến Kim Trọng, cha mẹ rồi tự thấy xót thương cho số phận mình.
b. Phân tích 8 câu giữa:
* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu):
– Kiều nhớ về những kỉ niệm hạnh phúc của mình và Kim Trọng.
- Chữ “tưởng” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự hồi tưởng lại những kí ức của Kiều.
- Ánh trăng vằng vặc trên đầu nhắc nàng nhớ về lời thề nguyền cùng chén rượu thề dưới trăng: “Vầng trăng vằng vặc trên trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
- Nàng càng đau đớn hơn khi nghĩ về Kim Trọng ở Liêu Dương đang mong ngóng tin của nàng trong vô vọng “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
– Càng nhớ tình lang, nàng càng xót xa cho thân phận mình “Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
- “Tấm son”: tấm lòng thuỷ chung của Kiều với Kim Trọng sẽ không bao giờ phai.
- Giữa lúc cô đơn, lạc lõng nhất, Kiều vẫn hướng về Kim Trọng với một lòng thuỷ chung.
* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu sau):
- Chữ “xót” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự xót xa khi nghĩ tới cha mẹ ở quê nhà.
- Nàng thương xót cha mẹ già yếu ngày ngày “tựa cửa” mong tin con.
- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển tích “sân Lai gốc tử”: chỉ sự xót xa của Kiều khi không được kề bên chăm sóc cha mẹ già.
- Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: chỉ thời gian qua nhanh, cảnh vật biến đổi, Kiều đau đáu nỗi nhớ mẹ cha, day dứt khi phụ công sinh thành.
* Nỗi nhớ người yêu đặt trước nỗi nhớ cha mẹ vì:
- Kiều đã bán mình cứu cha và em: coi như đã báo đáp một phần ơn nghĩa sinh thành với cha mẹ.
- Đối với Kim Trọng: Chàng chưa hề biết tin Kiều gặp gia biến, vẫn đang mong ngóng tin của nàng. Nàng đã phụ tình với chàng nên nỗi nhớ chàng trước cha mẹ cũng là hợp tình hợp lý.
c. Đặc sắc nghệ thuật:
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc.
- Sử dụng các thành ngữ, điển tích điển cố chính xác và tinh tế.
3. Kết bài:
- Tám câu giữa của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, cha mẹ của Kiều.
- Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.
Dàn ý 3
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông có rất nhiều tác phẩm để lại nhiều tiếng vang
- Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du.
- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều.
– Giới thiệu 8 câu giữa: Nỗi nhớ của Kiều khi đứng trước lầu Ngưng Bích
2. Thân bài
* Khái quát về Thúy Kiều và hoàn cảnh đưa đẩy nàng đến như bây giờ
* Khái quát về đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Sau khi biết mình bị lừa bán vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú bà vì sợ mất tiền nên đã hứa khi nào Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế, nhưng lại đưa nàng ra lầu Ngưng bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống một mình ở lầu ngưng bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi
* Khái quát nội dung tám câu thơ: Là nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu và cha mẹ
* Nỗi nhớ về người yêu:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
- Chữ “tưởng”: hồ tưởng, nhớ lại.
- Nhớ lại đêm thề nguyền dưới trăng: “chén đồng” – chén rượu thề nguyền, đồng lòng mà Thúy Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng.
- Nhớ về Kim Trọng nên đau đớn, chàng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn đang mong chờ tin tức và Kiều cảm thấy có lỗi
- Động từ “gột rửa”: diễn tả tấm lòng thủy chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được.
* Nỗi nhớ về cha mẹ
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” điển cổ ” sân lai” ” gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
- “Có khi gốc tử đã vừa người ôm” nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc.
- Cụm từ” cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật
* Kiều nhớ đến người yêu trước khi nhớ đến cha mẹ
- Khi đặt chung giữa hai chữ tình và hiếu, Kiều đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha, Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng rất nhiều vào Kiều. Nhưng giờ đây, tấm thân của Kiều đã hoen ố, nên nàng càng ân hận và day dứt hơn.
- Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí.
* Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
- Hình ảnh, từ ngữ tinh tế.
3. Kết bài
- Tổng kết nội dung.
Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Mẫu 1
Nguyễn Du là danh nhân văn hoá của thế giới đồng thời ông cũng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng nổi bật nhất phải kể tới kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và điển hình là tám câu thơ giữa đã khắc hoạ rất chân thực, rất xúc động nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Thuý Kiều.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi Kiều bán mình cứu cha và em trai, nàng những tường mình chỉ bị “bán” để làm vợ lẽ cho người, không ngờ lại bị lừa vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Tủi nhục, uất ức, Kiều quyết định tự vẫn nhưng lại được cứu sống. Tú Bà vờ hứa với Kiều đợi nàng hồi phục sẽ đem gả vào nơi tử tế rồi đem giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Ở một ngôi lầu mà bốn bề chỉ thấy vắng lặng, phía đông trông ra biển, phía bắc nhìn lên kinh kì, phía nam ngó ra Kim Lăng, phía tây lại thấy dãy Kỳ Sơn, Kiều vô cùng buồn bã. Nàng nhớ lại những kỉ niệm khi còn ở quê nhà, nhớ lại những kỉ niệm cùng chàng Kim Trọng và xót thương cho số phận long đong của mình.
Với tám câu giữa trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta có thể thấy được nỗi nhớ thương người yêu cùng nỗi nhớ cha mẹ của Kiều ngập tràn trong từng lời thơ. Nàng nhớ đến Kim Trọng – mối tình đầu sâu đậm đầy luyến tiếc của mình:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.”
Chữ “tưởng” mở đầu cho dòng thơ là dòng hồi tưởng, là những hồi ức của Kiều về Kim Trọng. Nhớ về mối tình đầu của mình, Kiều nhớ lại những lời thề son sắt của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc, rằng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
Dưới ánh trăng vĩnh cửu đó, Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau nâng “chén đồng” – chén rượu thề nguyền cùng đồng lòng, đồng dạ. Vầng trăng kia giờ đây vẫn sáng tròn, vẫn vẹn nguyên như thế, vậy mà tình duyên của hai người lại đột ngột bị chia cắt trong đau đớn. Câu thơ nhịp nhàng như lời kể của một trái tim yêu đang đau đớn khôn cùng khi nhớ về những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ. Và khi nhớ về Kim Trọng, Kiều càng đau đớn hơn khi hình dung ở Liêu Dương xa xôi, Kim Trọng vẫn chưa hề hay tin nàng đã phải “bán” mình chuộc cha và vẫn một lòng hướng về Kiều, đợi chờ từng chút tin tức của nàng một cách vô ích: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
Nhớ tình lang của mình bao nhiêu, hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp đẽ bao nhiêu thì Kiều lại càng xót xa cho phận mình bấy nhiêu:
“Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Một mình bơ vơ, lạc lõng giữa chốn xa lạ, nàng thương cho thân phận mình và lại càng tiếc thương cho mối tình đầu ngây thơ đẹp đẽ. Thế nhưng dù rằng đã đi xa, đã không còn vẹn nguyên là một thiếu nữ ngày nào, nhưng “tấm son” – tấm lòng thuỷ chung của nàng với Kim Trọng sẽ chẳng bao giờ phai nhạt. Giữa lúc cô đơn, lạc lõng, bị giam cầm, thế nhưng Kiều vẫn nhớ về Kim Trọng với một tấm lòng thuỷ chung son sắt.
Nhớ người yêu là vậy, nhưng trong tâm can Kiều còn thổn thức cả nỗi nhớ thương về cha mẹ của mình. Nếu như khi nhắc về nỗi nhớ Kim Trọng, Kiều trong niềm hồi “tưởng” thì nhắc tới cha mẹ, nàng lại cảm thấy “xót” xa vô cùng:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”
Một mình giữa chốn xa lạ, thế nhưng Kiều lại xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ của mình, đã già yếu vậy mà ngày ngày vẫn “tựa cửa” mong ngóng tin tức con. Là phận con, Kiều càng đau xót hơn khi không được tự mình chăm lo cho cha mẹ lúc về già. Câu thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cùng điển tích “sân Lai gốc tử” đã nói lên nỗi lòng của một người con hiếu thảo đang đau đớn vì không được kề bên chăm sóc cha mẹ già. Nhớ cha mẹ, tưởng tượng thấy quê nhà đã thay đổi nhiều mà cha mẹ lại càng ngày càng già yếu, vậy mà nàng lại chẳng thể sớm hôm chăm lo, điều đó mới thật đau xót làm sao! Cụm từ “cách mấy nắng mưa” là một cụm từ chỉ thời gian dài xa cách, đã trải qua bao mùa nắng mưa, nhưng đó cũng là cách nói chỉ sự tàn phá của thiên nhiên, thời gian đối với con người và cảnh vật. Nhớ cha mẹ, nhớ về công lao dưỡng dục sinh thành, Kiều lại càng đau đáu niềm ân hận, day dứt khi đã phụ công của cha mẹ. Nỗi nhớ thương, tâm tình ấy gửi vào cả không gian và thời gian khiến ta cảm thấy nó thật sâu sắc, chân thành vô cùng!
Đến đây có lẽ sẽ nhiều người hỏi, tại sao Kiều nhớ thương cha mẹ nhiều như vậy nhưng lại nhắc nhớ về người yêu trước mà không phải mẹ cha của mình? Lí giải điều này có lẽ là vì khi Kiều “bán mình” chuộc cha, nàng đã tạm yên lòng với chữ hiếu, nàng đã phần nào đền đáp được công ơn cha mẹ sinh thành. Thế nhưng với Kim Trọng, khi nàng rời đi, chàng vẫn chẳng hề hay biết, vẫn một lòng giữ gìn lời thề và kì vọng vào Kiều. Có thể nói, Kiều nghĩ rằng mình đã phụ chàng nên nàng mới day dứt nỗi đau ấy mà nhớ tới chàng trước tiên. Đây là tâm trạng hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí của con người.
Ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí của Thuý Kiều vô cùng chân thực và chính xác. Chỉ với tám câu thơ, nhưng ông đã làm nổi bật nên tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Dù ở hoàn cảnh cô đơn, lạc lõng, mịt mù về tương lai thế nhưng Kiều vẫn là một người con hiếu thảo, một người tình hết mực thuỷ chung, son sắt. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du cũng kết hợp sử dụng các thành ngữ, các điển tích điển cố, các từ ngữ vô cùng chính xác để miêu tả tâm trạng của Kiều. Ông quả là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả.
Qua tám câu thơ giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã khắc hoạ hết sức thành công nỗi nhớ thương người yêu, nhớ thương cha mẹ của nàng Kiều. Qua đó, ta thấy được Kiều không chỉ là một người con gái tài sắc vẹn toàn mà còn rất hiếu thảo và vô cùng thuỷ chung. Đoạn thơ cũng đã giúp Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Mẫu 2
Nguyễn Du sống trong một thời đại đầy biến động. Lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vô cùng thối nát, mục ruỗng. Đời sống nhân dân vì vậy mà vô cùng cực khổ, và khổ nhất, đó chính là những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Kiệt tác Truyện Kiều đã phản ánh được hiện thực nghiệt ngã đó, lên tiếng tố cáo những bất công của xã hội và bênh vực người phụ nữ. Đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung hiếu thảo của Thuý Kiều. Điều này được thể hiện rõ trong tám câu thơ giữa trong đoạn trích.
Nỗi nhớ thương của Kiều được tác giả nói đến với hai nỗi nhớ chủ yếu: nhớ người yêu và nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ già. Lúc này là sau khi gia đình Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà – chủ quán lầu xanh vờ hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.
Trong hoàn cảnh này, nàng đã nhớ tới người yêu và cha mẹ. Nguyễn Du đã khéo léo để nàng Kiều nhớ Kim Trọng trước, cha mẹ sau. Bởi, trước hết nó phù hợp với quy luật tâm lí của tuổi trẻ. Hơn nữa, trong cơn gia biến, Kiều đã hi sinh chữ tình vì chữ hiếu. Nàng đã bán mình chuộc cha, làm tròn đạo hiếu. Với cha mẹ, nàng đã đền đáp được công ơn sinh thành và dưỡng dục cao như núi, dài như bể của cha mẹ. Vì vậy nàng không có gì phải ăn năn, day dứt. Thế nhưng, còn với chàng Kim, nàng đã không làm tròn được lời thề đính ước giữa chàng và nàng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Động từ tưởng thể hiện được nỗi nhớ buổi thề nguyền đính ước giữa chàng và nàng. Thúy Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang nhớ về mình trong vô vọng. Kiều nhớ về đêm trăng tình tự của Kim – Kiều với lời thề thủy chung, son sắt. Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đang ngày đêm thương nhớ mình, khắc khoải chờ tin nàng. Bao nhiêu nhớ thương, bao nhiêu đau đớn kết lại trong câu thơ. Có người nói rằng ở đây còn có cả nỗi tủi hổ của Kiều khi “tấm son” đã bị cuộc đời làm cho nhơ nhuốc không sao gột rửa được. Vẫn biết Kiều là người luôn có ý thức về bản thân, về nhân cách, về phẩm giá của mình. Cho nên, khi được mời ra cho Mã Giám Sinh xem mặt, nàng mới có cái cảm giác “trông gương mặt dày”. Nhưng trong câu thơ này, hiểu như thế e là chưa đúng,bởi từ “gột rửa” mà Nguyễn Du dùng. Thường thì nghĩa của từ này là kì cọ, làm cho sạch những vết bẩn dây vào, nhưng ở đây nhà thơ đã không dùng từ này với nghĩa đó. Dưới hình thức của một câu hỏi, ông để cho Kiều tự khẳng định sự thủy chung của mình, tấm lòng son – tình cảm thủy chung son sắt với chàng Kim làm sao có thể gột rửa được đây. Chính từ “gột rửa” đã khẳng định một cách chắc chắn, đinh ninh về tình cảm thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng. Hơn nữa, tới giờ phút Kiều bị đưa ra lầu Ngưng Bích, nàng chưa làm gì phải tủi hổ với chàng Kim. Khi bị đưa ra lầu xanh, nàng đã quyết lấy cái chết để bảo toàn danh tiết. Kiều đã rất đau đớn, xót xa khi nghĩ về Kim Trọng, nhưng chắc nàng không có gì phải hổ thẹn với lòng mình lúc này.
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ, nàng đã làm tròn đạo hiếu, nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Khi viết về nỗi nhớ cha mẹ của Kiều, Nguyễn Du dùng từ xót. Từ này thể hiện nỗi nhớ thương quặn lòng của một đứa con hiếu thảo. Nguyễn Du sử dụng thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố sân Lai, gốc tử để nói lên nỗi xót xa của nàng khi cha mẹ đã già mà không được chăm sóc chu đáo. Còn gì xót xa hơn khi nghĩ đến cha mẹ đã già mà vẫn phải nhớ thương, ngày đêm lo lắng cho mình, vẫn tựa cửa chờ ngóng tin con. Là người con chí hiếu, Kiều đã quyết “bán mình chuộc cha”, nhưng giờ đây nơi nghìn trùng xa cách, nàng vẫn không nguôi được nỗi nhớ thương, xót xa cho cha mẹ già. Ai sẽ thay mẹ chăm sóc cha mẹ luôn là câu hỏi xoáy sâu tâm can nàng.
Đoạn thơ đã miêu tả được tấm chân tình, vẻ đẹp cao cả của nhân vật Thúy Kiều. Nói đến Kiều, người ta thường nói đến cái tài, cái sắc, nhưng chính cái tình của Kiều đối với gia đình, đối với người yêu, đối với tất thảy mọi người trong cuộc đời này mới là điều làm nên nhân cách cao đẹp của Kiều.
Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Mẫu 3
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều”– kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc “Thúy Kiều”còn rất thành công về nghệ thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và hợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và điển hình là tám câu thơ trên đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.
Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi. Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông với non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đớn, tan nát cõi lòng
Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. “chén đồng”là chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh linh hai miệng một lời song song”
Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.
Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. câu thơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”có thể hiểu tấm son của Kiều đã bị hoen ố nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu “tấm son”là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.
Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng “tưởng”thì nhớ tới cha mẹ nàng “xót”.
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh ” và điển cố “sân lai””gốc tử”đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm”nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu”và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ tình – chữ hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.
“Giữ vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây với trời”
Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.
Tóm lại bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế. Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói chung và tám câu thơ trên nói riêng Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động lỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Cảm nhận về 8 câu thơ giữa Kiều ở lầu Ngưng Bích
Trong bài thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tám câu thơ giữa đã thể hiện tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình cùng hoàn cảnh tội nghiệp đáng thương của Kiều ở nơi đất khách quê người. Hai câu thơ: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ” tái hiện kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc. Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận, cuộc đời của mình “Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tột cùng của mình mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy, không thể gột sạch được. Hình ảnh “tấm son” là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Hình ảnh “người tựa cửa” đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều tưởng tượng đang đứng trông chờ nàng trở về. Hình ảnh “quạt nồng, ấp lạnh” và câu hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát cho bố mẹ vào mùa hè nữa. Hai câu thơ “Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm” có sử dụng điển tích “Sân Lai, gốc tử” cho thấy tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh “cách mấy nắng mưa” cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của Kiều. Ở nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình. Tóm lại, tám câu thơ giữa bài thơ đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở nơi đất khách quê người.
Nguồn: thtrangdai.edu.vn
Chuyên mục: Blog